Khi bảo tàng trưng bày… chính mình
Trưng bày “Từ nhà Bác cổ đến Bảo tàng Lịch sử quốc gia” đang diễn ra tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia (số 1 Tràng Tiền, Hoàn Kiếm, Hà Nội) là dịp hiếm hoi công chúng có thể tiếp cận với nhiều tư liệu, hình ảnh quý hiếm gắn với lịch sử tồn tại của tòa nhà nhân 90 năm ngày khánh thành công trình này (1932-2022).
Trưng bày giới thiệu nhiều tư liệu, hiện vật, hình ảnh gắn với lịch sử 90 năm, từ khi khánh thành công trình tòa nhà Bảo tàng Louis Finot của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp đến nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia (1932 – 2022). Giới chuyên gia nhận định đây là một trong những công trình tiêu biểu cho phong cách kiến trúc Đông Dương ở Việt Nam thời thuộc địa, kết hợp độc đáo giữa phong cách phương Đông và phương Tây do các kiến trúc sư người Pháp thiết kế, xây dựng. Sau đó, các thế hệ người Pháp, người Việt và đặc biệt là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử quốc gia tiếp tục bảo tồn, phát huy hiệu quả.
Trưng bày giới thiệu đến công chúng một toàn cảnh về bối cảnh ra đời, quá trình xây dựng công trình, giai đoạn đầu hoạt động của bảo tàng dưới sự quản lý của người Pháp (1932 – 1957) và những giá trị kiến trúc tiêu biểu. Đồng thời cũng tập trung giới thiệu những mốc lịch sử quan trọng trong bước ngoặt chuyển giao công trình và cơ sở vật chất cùng khối tài liệu, hiện vật cho Chính phủ Việt Nam (1945 – 1946). Cùng với đó là quá trình tiếp nhận, các đợt chỉnh lý chuyển đổi nội dung, cải tạo không gian kiến trúc phục vụ lữu giữ, trưng bày nhưng công trình bảo tàng vẫn giữ đúng chức năng, giá trị kiến trúc, công năng sử dụng. Đặc biệt dù qua nhiều lần chỉnh lý, cải tạo, sửa chữa nhưng công trình đến nay vẫn giữ được nguyên vẹn dáng vẻ ban đầu và được sử dụng đúng công năng vốn có. Trở thành di sản quý giá, chứa đựng khối di sản vô cùng giá trị của dân tộc…
Thạc sĩ Nguyễn Hải Vân (Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) nhận xét rằng, với hình thức kết hợp nhuần nhuyễn Á – Âu trong cấu trúc mặt bằng không gian, trong tổ chức hình khối kiến trúc và mặt đứng, cùng sự hài hòa giữa công trình với cảnh quan thiên nhiên, tòa nhà này xứng đáng được coi là một trong những đại diện lớn nhất của phong cách kiến trúc Đông Dương không chỉ ở Hà Nội mà còn trên toàn đất nước Việt Nam.
Ở công trình này có sự pha trộn kiến trúc Việt Nam, Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc nhưng rất nhuần nhuyễn như một loại phong cách Châu Á thuần nhất.
Sự hòa hợp kiến trúc Á – Âu
Các dữ liệu của Bảo tàng Lịch sử quốc gia cho thấy, công trình tiền thân là Bảo tàng Louis Finot trước đây thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp (École Française d’Extrème – Orient) do các kiến trúc sư C.Batteur và E.Hébrard thiết kế năm 1925. Công trình được khởi công năm 1929 và hoàn thành năm 1932 trên khu đất phía sau Nhà hát lớn, chạy dọc theo bờ đê sông Hồng và là điểm kết thúc của tuyến phố Quai Guillemoto (phố Trần Quang Khải ngày nay), một vị trí có thể tạo ra điểm nhấn kiến trúc cho tuyến đường ven đê.
Trong nghiên cứu về công trình này, Thạc sĩ Nguyễn Hải Vân cho rằng đây là một trong những công trình văn hóa vào loại tiêu biểu nhất, một công trình kiến trúc được đánh giá là có nhiều thành công trong xử lý không gian kiến trúc, gây ấn tượng sâu sắc về một kiểu kiến trúc phù hợp với phương Đông. Công trình có thể được coi là một đại diện lớn của phong cách kiến trúc Đông Dương, kết hợp tinh tế các giá trị của nền kiến trúc Pháp với các giá trị kiến trúc bản địa.
Cụ thể, mặt bằng bảo tàng được kiến tạo theo yêu cầu của không gian kiến trúc trưng bày nên được cấu tạo dựa trên những không gian khẩu độ lớn. Không gian sảnh chính hình bát giác có kích thước mỗi cạnh lớn lên đến 11m, không gian trưng bày chính nằm ngay sau đại sảnh có hình chữ nhật kéo dài và được tổ chức theo hình thức xuyên phòng, có sự chuyển tiếp được tổ chức khéo léo. Ngoài ra còn có các không gian trưng bày chuyên đề nằm ở hai phía của đại sảnh tạo thành một tổng thể trưng bày khoáng đạt.
Nghiên cứu cho thấy phía dưới tầng trưng bày là một tầng trệt cao 2,5m – hiện được dùng làm nơi phục chế, kho và cũng mang ý nghĩa của một tầng cách ẩm làm cho không gian trưng bày phía trên luôn khô ráo trong điều kiện độ ẩm cao ở Hà Nội.
Hình khối mặt đứng công trình được nhấn mạnh bởi hệ thống mái che khối sảnh hình bát giác nhô cao phía trên công trình. Đây là một hệ ba lớp mái bao gồm mái trên có độ dốc lớn và được ngăn cách với các mái dưới bởi hệ thống cửa lấy sáng và một hệ con sơn liên tục, phía dưới là hai lớp mái có độ dốc nhỏ hơn. Theo đó mặc dù hình khối theo kiểu bát giác mang nhiều nét của kiến trúc Trung Hoa cổ, nhưng nhìn toàn bộ khối mái này lại gợi cho chúng ta hình ảnh của tháp chuông chùa Keo, Thái Bình do cách xử lý khéo léo của các kiến trúc sư – tác giả theo kiểu hệ mái ba lớp với các con sơn liên tục chồng lên nhau. Bảo tàng là một công trình văn hoá lớn lúc bấy giờ nên khối sảnh bát giác mang nhiều tính hình thức của Chủ nghĩa Biểu hiện và tạo được ấn tượng tốt.
Một thiết kế độc đáo là toàn bộ hệ mái cho các khu trưng bày được cấu tạo theo kiểu mái chồng diêm hai lớp thường thấy ở các công trình tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam truyền thống. Khe hở giữa hai lớp mái đóng vai trò thoát gió trong hệ thống thông gió tự nhiên của công trình. Lớp mái phía dưới đua rộng ra khỏi hệ thống tường ngoài, có tác dụng che nắng và chống mưa hắt cho hệ thống cửa mở rộng phía dưới, đồng thời tạo bóng đổ trên mặt đứng làm tăng vẻ duyên dáng cho toà nhà. “Phần mái đua được đỡ bởi hàng cột kép kết hợp với hệ con sơn cách điệu cùng các hoạ tiết trên lan can tạo ra một dáng vẻ Á Đông rõ rệt” – Thạc sĩ Nguyễn Hải Vân nhận định.
Các kiến trúc sư cũng đặc biệt lưu ý các giải pháp thông gió tự nhiên bằng cách tổ chức một hệ thống cửa sổ mở rộng trên các tầng nhà, kết hợp với các cửa thoát gió trên mái khiến cho khối không khí trong nhà luôn được lưu thông theo cả phương ngang lẫn phương đứng. Không gian sảnh và các khu trưng bày cũng luôn tràn ngập ánh sáng tự nhiên nhờ các cửa sổ rộng kết hợp với các cửa kính hãm trên cao, đặc biệt là các cửa kính bát giác trên khối sảnh vừa mang ý nghĩa trang trí vừa đưa vào ánh sáng rực rỡ cho khu đại sảnh. Các họa tiết trang trí nội ngoại thất công trình đều xuất phát từ các motif Á Đông cổ truyền nhưng được cách điệu và biến hóa ở các vị trí khác nhau, tạo ra sự đa dạng trong phong cách trang trí nhưng vẫn hòa nhập với hình thái kiến trúc chung.
Theo Laodong